Yêu cầu của mọi phương pháp chiến lược điều trị bệnh Parkinson bao giờ cũng nhằm giải quyết bốn trọng tâm là:
- Làm giảm bớt tối đa các triệu chứng bệnh lý. Trước hết là các biểu hiện của hội chứng ngoại thấp;
- Nâng cao chất lượng cuộc sống của bệnh nhân;
- Gia tăng tuổi thọ cho bệnh nhân;
- Bảo vệ được chức năng của hệ thần kinh.
Do đó hiện nay có ba xu hướng chính trong tiếp cận điều trị bệnh Parkinson:
- Giải quyết triệu chứng bệnh lý nhằm phục hồi mức dopamin trở về bình thường cũng như điều chỉnh hoạt động bất thường của hệ vận động.
- Bảo vệ thần kinh nhằm tác động vào các nguyên nhân của thoái hoá tế bào thần kinh về mặt sinh bệnh.
- Phục hồi chức năng thần kinh bằng cách làm gia tăng mức độ trưởng thành của tế bào thần kinh.

Bệnh parkinson
Dưới đây xin trình bày mặt điều trị dược lý bệnh Parkinson. Trong lâm sàng, các thuốc kháng Parkinson được sử dụng phổ biến nhằm giải quyết các triệu chứng bệnh lý để giúp cho bệnh nhân duy trì được mức độ chủ động và ít bị phụ thuộc trong đời sống hàng ngày. Căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng và giai đoạn tiến triển, thầy thuốc điều trị sẽ lựa chọn thuốc thích hợp cũng như sẽ quyết định dùng một loại thuốc hoặc kết hợp các thuốc khác nhau.
Thông thường hiện nay các thuốc kháng Parkinson bao gồm: các ancaloid (thực chất ít được dùng), các kháng histamin tổng hợp, các dẫn chất tổng hợp kháng cholin,…
>>> Xem thêm: Nghệ thuật tặng quà / Muốn cơ thể cường tráng
- CÁC ANCALOID
Thường dùng các ancaloid của họ cà độc dược như Atropin, Scopolamin, Datura stramonium. Muốn đạt được hiệu quả thường phải cho liều lượng rất cao, do đó dễ sinh ra các tác dụng thứ phát không có lợi cho điều trị. Hiện nay hầu như không sử dụng tới những thuốc này. Riêng ở Pháp, vẫn còn có Genoscopolamin: Thuốc được trình bày dưới dạng hạt 0,625mg; liều điều trị l,25mg, uống 2 -3 lần/ngày.
- CÁC KHÁNG HISTAMIN TổNG HỢP
Có nhiều thuốc khác nhau. Đặc điểm chung là thường có -tác dụng giống atropin (atropin-like) nhưng hiệu quả thực tế đối với bệnh Parkinson rất yếu. Tuy nhiên, nếu phối hợp với các dẫn xuất kháng cholin, các kháng histamin tổng hợp có thể tăng cường thế hiệụ của các chất đó. Ở Hoa Kỳ sử dụng Diphenhydramin có tác dụng nhẹ kháng cholin và kháng Parkinson; cũng có thể cho bệnh nhân khó ngủ dùng làm thuốc an thần..
- CÁC DẪN CHẤT TỔNG HỢP KHÁNG CHOLIN
(Bảng 1)
Cơ chế tác động của các chất này là loại trừ hoạt động quá mức của cholin ở não. Các chất kháng cholin nào không qua được hàng rào máu – não sẽ không có tác- dụng đối với hội chứng Parkinson. Các chất kháng cholin tác động trung ương sẽ có ảnh hưởng tốt tới các triệu chứng run, căng cứng và giảm động trên khoảng từ 1/3 đến 1/2 số bệnh nhân.
Thuốc được hấp thu nhanh chóng qua đường tiêu hoá, một phần bị bất hoạt ở gan (thuỷ phân men) rồi bị loại theo nước tiểu.
Các dẫn chất tổng hợp kháng cholin thường được chỉ định trong các thế khởi đầu của bệnh Parkinson và có thể cho dùng đơn thuần hoặc phối hợp với Levodopa.
Bảng 1. Các dẫn chất tổng hợp kháng cholin.
Dẫn xuất | Tên thuốc | Biệt dược | Trình bày | Liều dùng |
Phenothiazin | Diethaĩìn | Diparco! | Q,50g-2g/ngày | |
lsothiazin | Proíenamin | |||
Elhopropazin | Parsidol | viên nén 150mg | 150-50mg/ngày | |
Benzhydryl | Benzatropin | Cogenline | viên nén 0,5mg | 1 -6mg/ngày |
Etyticnza!ropĩn | Ponalid« | 5mg viên 5mg/2ml | 2,5- 15mg/ngày | |
Orphenadnn | Disipal | viên nén 50 – 100mg | 20mq/ngày | |
□otenetamin | Keithon | 100 – 30mg/ngày | ||
Piperidin | Tnhexyphơnidyl | Arlane | viỏn nén 2mg – 5met | 6 – 15mg/ngày |
Cyclodol | viên nang 5mg | |||
Benzhcxol | viên tác động chậm | |||
Procyclidin | Kemadrin | viên nén 5mg | 10 – 30mg/ngày | |
Cycnmi» | Pagilane | viên nén 1.25mg-2,5mg | 3,75 – 15mg/ngày | |
Biperiđin | Akinophyl | viên nén 2mg | 6 mg/ngày | |
Akineton | ||||
Taumidrine | vièn nén 2mg | 50-150mg/ngày | ||
Tripendin | Norakin | viên nén 2mg | 3 – 10mg/ngày | |
Pridinol | Parks 12 | 5 – 20mg/ngày | ||
Tropatéptne | Lepticur | viên nén I0mg | 10 – 30mg/ngày | |
Glưlaramid | Phenglutaramid | ALurbane | 10 – 30mg/ngày |
về mặt tác động lâm sàng, không có gì khác biệt lắm giữa các thuốc này nên có thể bắt đầu điều trị với bất cứ thuốc nào trong loại đó. Trong thực hành nên khởi đầu bằng liều thấp rồi tăng dần liều và cần cân nhắc giữa hiệu quả với tác dụng thứ phát của thuốc.